Bàn thờ vợ chồng Hội đồng Trạch với 2 bức tượng đồng vẫn còn nguyên trong khách sạn
Công tử Bạc Liêu.
 
                               
Vào thập kỷ 1980, sau khi Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy qua đời, dòng 
họ Trần Trinh chính thức khánh kiệt, những đứa con của Công tử Bạc Liêu 
rơi vào nghèo khổ, có người chạy xe ôm. Đúng 100 năm trước đó, dòng họ 
Trần Trinh cũng khởi đầu nghèo khó, ông Trần Trinh Trạch - ba của Trần 
Trinh Huy - là một cậu bé chăn trâu... 
 
 
Nhờ đâu mà từ một cậu bé chăn trâu để kiếm chén cơm thừa của 
chủ, Trần Trinh Trạch lại trở thành đại điền chủ giàu nhất Nam Kỳ, để 
rồi đứa con Trần Trinh Huy có sẵn một núi tiền để ăn chơi vô độ, nổi 
danh là Công tử Bạc Liêu?
“Đái ra quần” vì phải đi học 
  
Trong lịch sử khai khẩn vùng đất Nam Bộ, những vùng gần sông biển như Gò
 Công, Mỹ Tho, Rạch Giá, Hà Tiên được khai khẩn từ rất sớm, trước cả 
thời nhà Nguyễn. 
 
Vùng đất Bạc Liêu mới được khai khẩn từ sau khi thực 
dân Pháp xâm chiếm nước ta. Cha mẹ của ông Trần Trinh Trạch có mặt trong
 đoàn người từ miệt Gò Công tới khai khẩn vùng đất Bạc Liêu, được chính 
quyền thực dân đưa đến vùng đất Cái Dầy lập nghiệp bên một dòng kinh vừa
 mới được đào đắp. 
 
 
Do đông con, hầu hết còn nhỏ, nên ba má ông Trạch không khai khẩn được 
nhiều ruộng. Rồi dịch bệnh xuất hiện trong vùng, mấy đứa con liên tục bị
 bệnh hoạn, họ phải đem cầm cố hết ruộng đất để cứu chữa các con, nên 
trở thành bần cố nông, không mảnh đất cắm dùi. Vừa lớn lên cậu bé Trạch 
phải đi ở đợ, chăn trâu ở nhà ông bá hộ trong vùng, hằng ngày được lưng 
bụng bằng vài chén cơm thừa, ấm lòng bằng manh áo rách của con chủ thải 
ra.
 
 
Sau 2 năm chăn trâu, có một việc tình cờ làm thay đổi số phận của cậu bé
 Trạch. Đó là vào năm 1881, chính quyền thực dân buộc các gia đình bá hộ
 ở Nam Kỳ phải cho con đi học trường Pháp trong kế hoạch “khai hóa” vùng
 đất chúng vừa chiếm đóng. 
 
Năm ấy cậu bé Trạch lên 8 tuổi, một buổi 
sáng, khi cậu bé vừa mở cửa chuồng trâu, tháo dây vàm, định dắt trâu ra 
đồng như mọi khi thì ông bá hộ ngăn lại nói: “Thôi khỏi, mày buộc trâu 
vô chuồng lại đi, rồi lên nhà trên ông dạy việc”.
 
 
Cậu bé Trạch rụt rè làm theo, nghĩ rằng mình đã làm điều gì sai quấy 
nên chủ mới không cho giữ trâu, kêu lên la rầy hay bị đuổi cũng nên. 
Cậu
 bé rón rén bước lên nhà trên, nơi mà suốt 2 năm làm mướn ở đây cậu chưa
 một lần dám đặt chân lên. 
 
Ông bá hộ thấy cậu bé đến thì chìa ngay bộ 
quần áo mới và nói: “Đây là bộ quần áo may cho mày, đi thay đồ đi!”. 
Thấy bộ đồ trắng tinh như đồ của các con ông bá hộ mặc hằng ngày, cậu bé
 Trạch ngạc nhiên đứng chết trân. Ông bá hộ nói: “Từ nay mày khỏi chăn 
trâu, mà đi học thay cậu Hai!”.
        
    
            |  | 
            | Vợ chồng Công tử Bạc Liêu. | 
Đến đây, cậu bé Trạch không chỉ đứng chết trân, mà đái ra quần lúc nào 
không hay. Từ nhỏ tới lớn cậu chỉ biết ở đợ, chăn trâu, một chữ bẻ đôi 
cũng không đọc được. Còn cậu Hai con ông bá hộ trác tuổi với bé Trạch 
được học chữ thánh hiền, hằng ngày có thầy đồ tới dạy tận nhà. 
Bé Trạch 
quỳ xuống lạy ông bá hộ, vừa khóc: “Ông thương con cho con coi trâu, con
 không học được đâu ông ơi!”. Thời ấy nhiều người giàu có ở Nam Kỳ tuy 
buộc phải hợp tác với chính quyền thực dân, nhưng rất ghét Pháp. 
 
Họ 
không muốn cho con đi học trường Pháp, mà ở nhà mời thầy đồ tới dạy học 
chữ Nho. Để đối phó với chính quyền, ông bá hộ ở Cái Dầy mới nghĩ ra 
chuyện bắt đứa nhỏ ở đợ, chăn trâu đi học thế. Dù sợ đến đái ra quần, 
nhưng cậu bé Trạch rồi cũng phải đến trường theo ý chủ.
 
 
Ngày hôm sau, cậu bé Trạch được gia nhân chở bằng ghe đi đến trường 
huyện cách đó mấy chục cây số để đi học, sau khi bị ông bá hộ dọa: “Mày 
học mà không xong, tao đuổi việc, chết đói đó con”. 
Cứ tưởng đi học thế 
một hai ngày, chẳng dè ông bá hộ bắt cậu bé Trạch học hoài, ở nội trú 
luôn ngoài trường huyện. Sau mấy ngày vừa học vừa run, cậu bé Trạch đã 
sớm thể hiện mình là đứa bé “sáng dạ”, học giỏi, được các thầy khen 
ngợi, ông bá hộ cũng lấy làm hài lòng. 
Cậu bé chăn trâu được học tới hết
 tiểu học, học cả tiếng Tây. Sự đi học nhờ lý do có một không hai ấy như
 là sự sắp đặt của số phận, để từ đó mà cậu bé chăn trâu vươn lên trở 
thành đại điền chủ giàu nhất xứ Nam Kỳ.
 
 
Thầy ký Trạch mê làm giàu
 
 
Học hết tiểu học, bằng cả chữ quốc ngữ và chữ Tây, Trần Trinh Trạch trở 
thành một trong số ít người giỏi cả chữ quốc ngữ và chữ Tây trong làng. 
Nhờ vậy mà ông được gọi ra làm thư ký làng. 
Từ công việc “biện làng”, 
thầy ký Trạch được rút lên làm thư ký trên quận, rồi rút lên tỉnh làm ở 
bộ phận thu thuế điền đất. Đi làm thầy ký, ông Trạch vẫn theo nếp nhà 
tóc để dài và buộc thành búi, nên mọi người đặt cho ông cái tên là “thầy
 ký Tó”. 
 
Thời ấy năm nào các chủ điền cũng phải lên tỉnh kê khai và đóng
 thuế ruộng đất, thầy ký Trạch là người luôn tận tình hướng dẫn họ làm 
việc ấy.
 
    
            |  | 
            | Ngôi nhà của Hội đồng Trạch, nay là khách sạn Công tử Bạc Liêu. | 
Lúc ấy ở Bạc Liêu có ông bá hộ tên Phan Văn Bì có hàng ngàn hécta đất, 
ông mỗi năm đôi lượt lên tỉnh sao lục sổ bộ đất đai và đóng thuế điền 
địa. Thấy thầy ký Tó làm việc có trách nhiệm giúp đỡ mình và mọi người 
nhiệt tình, ông bá hộ Bì có cảm tình. 
Một lần, bá hộ Bì mời thầy ký 
Trạch về nhà chơi và dùng cơm trưa. Trong bữa cơm, ông bá hộ cố ý để cho
 thầy ký Trạch tiếp xúc với cô con gái thứ tư của mình tên là Phan Thị 
Muồi. Chuyện gì đến rồi cũng đến, thầy ký độc thân và cô con gái rượu 
của ông bá hộ giàu nhất làng đã phải lòng nhau. Một đám cưới linh đình 
kéo dài 3 ngày giữa thầy ký Tó và cô con gái của bá hộ Bì.
 
 
Đám cưới xong, ông bá hộ Bì kêu thầy ký Trạch nghỉ làm việc vì lương 
bổng chẳng bao nhiêu, lại mang tiếng đi làm cho Tây. Ông bá hộ cho vợ 
chồng thầy ký Trạch mấy sở đất và cho vốn canh tác. 
Chỉ sau mấy mùa lúa 
trúng, vợ chồng ông Trạch phất lên thấy rõ, cất nhà đàng hoàng, mua sắm 
thêm ruộng. Không biết nhờ đâu mà một người xuất thân “bần cố nông” như 
Trần Trinh Trạch lại có tài năng thiên bẩm và sự đam mê làm giàu hơn 
người. 
Có chút chữ nghĩa, từng làm việc nhà nước, nay lại có chút vốn 
trong tay, thầy ký Trạch đăng ký đấu thầu và đã trúng thầu quản lý sở 
cầm đồ (Mont de Piété) của nhà nước.
 
 
Thời ấy chính quyền thuộc địa không cho tư nhân mở tiệm cầm đồ, mà nhà 
nước giữ độc quyền, nhờ vậy mà một mình thầy ký Trạch nắm độc quyền hoạt
 động cầm đồ ở tỉnh Bạc Liêu. 
Cũng nhờ kinh nghiệm và quen biết từ những
 năm đi làm thầy ký cho Tây, ông Trạch lại trúng thầu quản lý hãng rượu 
Bình Tây, độc quyền phân phối rượu ở Bạc Liêu. Tất cả những thứ đó đã 
làm cho vợ chồng ông Trạch giàu có, vượt ra ngoài phạm vi của một làng, 
một huyện. 
Nhưng chính sáng kiến của ông Trạch trong việc vay tiền Chà 
Sết-ty trên Sài Gòn về cho dân chúng ở Bạc Liêu vay lại, mới làm cho sự 
giàu có của ông Trạch bắt đầu được cả tỉnh Bạc Liêu biết đến. Ông vay 
tiền của nhà nước ở Sài Gòn với lãi suất thấp, đem về Bạc Liêu cho tá 
điền vay lại “ba phân lời” lấy chênh lệch.
 
 
Trong khi vợ chồng ông Trạch ngày càng ăn nên làm ra, thì các đứa con 
còn lại của ông bá hộ Bì (anh chị em vợ của thầy ký Trạch) lại mê cờ 
bạc, rượu chè, lâm vào nợ nần, phải bán dần đất để ăn chơi tiếp. Họ 
không bán cho người ngoài, mỗi khi có chuyện cần tiền là họ chạy tới vợ 
chồng thầy ký Trạch. 
Cứ vậy, hàng ngàn hécta ruộng ông bá hộ Bì chia cho
 cả chục đứa con lần lượt vào tay của vợ chồng đứa con thứ tư. Ông bá hộ
 Bì tuy có buồn khi các con bán hết đất đai, nhưng cũng tự an ủi vì đất 
không lọt ra người ngoài, mà vào tay vợ chồng cô Muồi con ông.
 
 
Thâu tóm hàng trăm ngàn hécta đất
 
Độc quyền cầm đồ, độc quyền phân phối rượu, độc quyền cho vay..., gia 
đình Trần Trinh Trạch phất lên như diều gặp gió. Nhưng chỉ đến khi ông 
Trạch trúng thầu giành quyền cung cấp muối cho cả Nam Kỳ thì sự giàu lên
 của ông mới nhanh như phi mã. 
 
Có tiền, ông thâu tóm thêm đất đai trong 
vùng, bằng cả mua bán sòng phẳng và ép buộc những người yếu thế. Cứ thế,
 đất đai của gia đình Trần Trinh Trạch cứ nới rộng mãi. 
 
Vào thập niên 1930 -1940, ông Trần Trinh Trạch đã sở hữu tổng cộng gần 
200.000 hécta ruộng trồng lúa và làm muối ở Bạc Liêu và vùng lân cận. 
Thời ấy, nếu có ai đề nghị ông Trạch đem cơ ngơi của ông để đổi lấy vùng
 đất mà ngày nay là nước Singapore giàu có, chắc chắn ông sẽ lắc đầu từ 
chối. 
 
Diện tích đất mà ông Trạch sở hữu vào lúc cực thịnh rộng gấp 3 lần
 nước Singapore, đất đai ở Bạc Liêu vào thời đó cũng tốt hơn nhiều so 
với vùng đất ven biển của nước Singapore.
 
 
Có tiền, có ruộng đất cò bay thẳng cánh, ông Trần Trinh Trạch cho xây 
ngôi nhà đẹp nhất miền Tây lúc đó (giờ là khách sạn Công tử Bạc Liêu, 
thuộc Cty Du lịch Bạc Liêu). 
 
Ngôi nhà do kỹ sư người Pháp thiết kế, có 
hai tầng, hai đại sảnh. Toàn bộ vật liệu xây dựng ngôi nhà đều được chở 
từ Pháp sang, các đồ trang trí bên trong ngôi nhà được nhập cảng từ Ý và
 Hoa Kỳ. Toàn bộ các đồ sứ, đồ gỗ lại được đưa từ Trung Hoa sang. Từ đó 
đến nay, gần một thế kỷ qua, căn nhà gần như vẫn giữ được những nét cơ 
bản của nó.
 
 
Năm 2003, Cty Du lịch Bạc Liêu đã đầu tư tu sửa căn nhà và đưa vào kinh 
doanh văn hóa, du lịch, làm khách sạn “Công Tử Bạc Liêu”. Căn phòng của 
Công tử Bạc Liêu ở ngày trước (phòng 101) muốn thuê phải đặt trước từ 
7-10 ngày, vì phòng này lúc nào cũng có khách, phần đông là Việt kiều. 
Tuy nhiên do qua nhiều giai đoạn lịch sử mà vật dụng trong gia đình đã 
thất lạc rất nhiều, nhưng với những gì còn sót lại và được bảo quản như 
hiện nay cũng đủ nói lên được sự giàu có của gia đình ông Hội đồng Trạch
 lúc bấy giờ.
 
 
Hiện nay, cơ quan có trách nhiệm vẫn còn để một gian thờ vợ chồng ông 
Trần Trinh Trạch trong khách sạn Công tử Bạc Liêu như là cách người đời 
sau ghi ơn những người có công xây dựng nên tòa nhà đồ sộ và tuyệt đẹp 
này. 
 
Đó cũng là cách để ngành du lịch Bạc Liêu thu hút du khách. Trên 
bàn thờ vẫn còn 2 pho tượng đồng bán thân của ông Trạch và vợ, do một 
nhà điêu khắc từ Thụy Sĩ tên là Bernard chế tác vào năm 1933 vào dịp 
mừng “đáo tế” ông Hội đồng Trạch. 
 
Một tháng trước ngày mừng thọ này, cậu
 Ba Huy mời hẳn một điêu khắc gia lừng danh bên Thụy Sĩ sang Bạc Liêu để
 thực hiện 2 bức tượng bán thân kích thước cỡ người thật cho ông bà Hội 
đồng Trạch. Điêu khắc gia Bernard ở lại Bạc Liêu đúng 1 tuần lễ, làm 
việc với mỗi “người mẫu” 3 ngày để đo ni tấc, phác họa thần sắc...
 
 
Xong, ông mang tất cả về Thụy Sĩ để mấy tháng sau trở lại Bạc Liêu với 2
 chiếc thùng gỗ được bảo quản cẩn mật. Cậu Ba Huy đã làm một nghi thức 
đón nhận 2 bức tượng đồng thật hoành tráng, giống như nghi thức dành cho
 các danh nhân, nguyên thủ quốc gia, với hàng trăm khách mời là những 
quan chức trong vùng, những hào chủ có tiếng đến dự tiệc, tất nhiên là 
có cả cánh nhà báo. 
 
Sau diễn văn khai mạc do chính cậu Ba Huy đọc nói về
 công ơn cha mẹ, ông mời lần lượt ông rồi bà Hội đồng Trạch lên kéo tấm 
vải điều đỏ thắm phủ bức tượng trong tiếng vỗ tay vang dội của quan 
khách.
 
 
Linh cảm ngày khánh kiệt
 
 
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ bên trời Âu, tại An Nam thuộc 
địa, chính quyền thực dân Pháp giương lên khẩu hiệu “Rồng Nam phun bạc 
diệt Đức tặc” để kêu gọi giới điền chủ ủng hộ tiền bạc cho “mẫu quốc” 
trong cuộc chiến tranh Đức - Pháp. 
 
Ông Hội đồng Trạch vốn thừa tiền của 
đã “mua” chút công danh cho gia tộc bằng cách ủng hộ cho chính quyền 
Pháp một số tiền khá lớn. Số tiền ấy tương đương với khoảng 10 ngàn 
lượng vàng lúc bấy giờ (gần 400kg vàng). 
 
Chính quyền Pháp sau đó đã “ghi
 công” ông Trần Trinh Trạch bằng cách “ân thưởng Ngũ đẳng Bội tinh” 
(Légion d honneur). Chính quyền thực dân cũng thu xếp cho ông Trạch đắc 
cử vào Hội đồng Tư vấn Mật viện, nên ông mới có danh xưng “Hội đồng 
Trạch”.
 
 
Suốt cuộc đời ông Trần Trinh Trạch đã dùng bao thủ đoạn để làm giàu, để 
thu gom hàng trăm ngàn hécta đất đai ở xứ Bạc Liêu và vùng lân cận. Lúc 
tuổi đã già, ông Trạch như linh cảm hậu vận không mấy sáng sủa của dòng 
họ Trần Trinh, nên ông quay sang làm từ thiện để “tích đức” lại cho cháu
 con. 
 
Vào các dịp mừng thọ 50 tuổi (1923), 60 tuổi (1933) và 70 tuổi 
(1943), ông Trạch đều mở hầu bao ra để phân phát tiền của, lúa gạo cho 
người nghèo. Ông cũng cho xé hết giấy nợ của các tá điền, vì vậy cứ đến 
dịp mừng thọ của Hội đồng Trạch là cả vùng Bạc Liêu mừng như trẩy hội.
 
 
Ông Trạch cũng ủng hộ những khoản tiền lớn để làm từ thiện trên phạm vi 
cả nước. Một nhà nghiên cứu người Pháp tên là Pierre Procheux đã viết về
 ông trên một tờ báo Pháp như sau: “Phần lớn các điền chủ lớn ở Nam Kỳ 
có hành vi giống như các nhà phú thương và ngân hàng Châu Âu thời Trung 
cổ hay là các đại gia Mỹ thuộc nhóm Big Business tự thấy có nghĩa vụ 
trích một phần tài sản giúp những kẻ thiếu may mắn đồng thời tham gia 
công cuộc xây dựng xã hội. 
 
Ông Trần Trinh Trạch nổi tiếng nhất về các 
đóng góp xã hội của ông như xây cất Cư xá Đại học Đông Dương ở Hà Nội và
 vận động lạc quyên giúp quỹ cứu trợ Pháp quốc”.
 
Gia tộc Trần Trinh làm lễ thượng thọ cho ông Hội đồng Trạch rất lớn vào 
năm 1943, như thể họ linh cảm một kết cục sắp xảy ra, mặc dù lúc đó ông 
Trạch vẫn còn khỏe mạnh. Sau lễ thượng thọ, ông Trạch kêu con trai là 
Công tử Bạc Liêu Ba Huy đích thân lái chiếc Chevrolet đưa ông đi chơi 
Sài Gòn, Đà Lạt, Vũng Tàu một chuyến gọi là “dối già”.
 
 
Tại Vũng Tàu, một buổi chiều, sau khi tắm biển, ông Trạch trở lên khách 
sạn và thấy ớn lạnh trong người, rồi sốt cả đêm. Cậu Ba Huy vội lái xe 
đưa ông về Sài Gòn, nhưng đã không còn kịp, ông tắt thở trên đường đến 
bệnh viện, thọ 71 tuổi. 
 
Đám tang của ông cũng lại là một sự kiện lớn ở 
Bạc Liêu và cả Nam Kỳ. Tang lễ kéo dài đến 7 ngày với tất cả những nghi 
thức rườm rà tốn kém nhất mà người ta có thể nghĩ ra. Hàng chục ngàn 
người đã đi theo xe tang từ Nhà Lớn về xã Cái Dầy chôn cất ông.
 
 
Từ một đứa trẻ chăn trâu với hai bàn tay trắng, một chút may mắn và ý 
chí làm giàu đã đưa ông Trần Trinh Trạch tới tột đỉnh giàu sang, 
đến khi
 nằm xuống vẫn là một trong những người giàu nhất Nam Kỳ. 
 
Thế nhưng, ông
 không thể ngờ rằng, cậu con trai mà ông đặt nhiều kỳ vọng và trao cho 
cả sản nghiệp là Ba Huy sau đó đã tàn phá núi gia sản với tốc độ còn 
nhanh hơn người cha Hội đồng Trạch trước đó gầy dựng nên. 
 
Để đến khi 
Công tử Bạc Liêu nằm xuống thì núi tài sản không lồ đã vơi đi gần hết. 
Để rồi đến đời con cháu của Công tử Bạc Liêu, lại quay trở lại sống 
nghèo khổ như cái thời ông Trạch đi chăn trâu cho người!
    
            | Bấy giờ, có nhà báo đã sáng tác bài vè ca tụng Trần Trinh Trạch, được đăng trên báo ở Sài Gòn như sau: 
 “Đất nhờ người nổi tiếng
 Người nhờ đức nên danh
 Mừng ông Hội đồng
 Tánh thánh thông minh
 Tư trời tài trí
 Lúc tuổi trẻ ra làm thơ ký
 Nơi pháp đình pháp lý làu thông
 Đến thời kỳ quản hạt hội đồng
 Ra tranh cử một thời luôn ba khóa
 Mười hai năm nghị trường ngôn luận khá
 Chức hội đồng tư vấn cũng trao ngay
 Chuyện lợi dân ích quốc chẳng bao ngày
 Bội tinh thưởng Ngũ đẳng tứ tam liên tiếp...”.
 | 
 
 
 
 
Bắt đầu cho một giai thoại về công tử Bạc Liêu. 
  
Ông Trạch có 3 người con trai, nhưng ông cưng nhất là cậu Ba Quy vì có 
“đầu óc hơn người”, được đi Tây học. 
Ông Trạch (“trạch” là tên một loài 
cá, cá trạch, có nhiều ở miền Tây Nam Bộ) thích đặt tên con theo các 
loài thủy tộc giống như mình, vì ông quan niệm “muốn giàu, nuôi cá”. 
Đứa 
con trai đầu lòng ông đặt tên Trần Trinh Đinh (“đinh” là tên một loài 
giống như rùa, nhưng lớn hơn, sống ở ven biển Nam Bộ). 
Đứa con thứ ba là
 Trần Trinh Quy (“quy” nghĩa là rùa). 
Đứa con trai út, ông cũng đặt tên 
một loài thủy tộc khác là Trần Trinh Khương, nhưng người đời quen gọi là
 Tám Bò. 
Cậu Hai Đinh được học tới Đip-lôm (trung học), rồi học ban tú 
tài, nhưng ông Hội đồng Trạch không cho cậu học tiếp, mà bắt ở nhà trông
 coi điền đất cho ông. 
Ông quan niệm, học nhiều đậu kỹ sư, bác sĩ cũng 
không kiếm tiền nhiều bằng mấy ông chủ điền.
Trần Trinh Quy cũng học tới đậu bằng Đip-lôm, ông Hội đồng Trạch định 
bắt nghỉ học ở nhà làm điền chủ, nhưng Ba Quy nhất mực đòi cha cho đi 
học bên Tây. 
Ba Quy nói: “Nhà mình bạc chứa cả kho mà ba hà tiện làm gì?
 Để cho con một bụng chữ còn hơn để mấy chục ngàn mẫu ruộng. Nếu ba cho 
con qua Tây học thì thiên hạ khắp nơi trên xứ Nam Kỳ lục tỉnh này ai 
cũng kính nể ba”. 
Nghe con nói chí lý, ông Hội đồng Trạch đã mở kho lấy 
cả valy bạc nén cho con đi Tây du học. Thấm thoắt mà đã 3 năm, cậu Ba 
Quy đã học “thành tài”, sắp trở về “vinh quy bái tổ”. 
  
Sau 3 năm “du học” bên Pháp, mà thực chất là chỉ có ăn chơi, tháng 
8.1930 Trần Trinh Quy trở về nước bằng tàu thủy. 
 
Ông Hội đồng Trạch đã 
dày công tổ chức một cuộc đón rước con rình rang có một không hai thời 
bấy giờ, với những phương tiện và nghi thức không hề thua kém đón rước 
Vua Bảo Đại. 
 
Bắt đầu từ đây, giới ăn chơi Nam Kỳ biết đến một Công tử 
Bạc Liêu Trần Trinh Huy. 
 
“Hai Lúa” và cuộc mua xe như Vua Bảo Đại
  
 
Hãng bán xe hơi ngay ngã tư Charner - Bonard (ngã tư Nguyễn Huệ - Lê 
Lợi, quận 1, TPHCM ngày nay) không thật niềm nở khi có hai người khách 
trong bộ dạng nhà quê ghé vào. 
 
Người lớn tuổi trong bộ đồ bà ba “lục 
soạn” trắng ngả màu phèn, ôm khư khư chiếc giỏ đệm, bên trong là cái mo 
cau. Ông già nhà quê và người thanh niên đi cùng xem khắp lượt các loại 
xe hơi đậu trong hãng. 
Sau một hồi ngắm ngắm nghía nghía, người thanh 
niên kéo ông già nhà quê tới bên chiếc xe “Huê Kỳ” (xe hơi) hiệu 
Chevrolet loại mới nhập cảng ở Mỹ qua, chưa ai có ở Nam Kỳ.
Ông già ra lệnh cho mấy thằng Tây bán xe mở cửa xe cho ông lên ngồi, bọn
 chúng trố mắt ngạc nhiên nhưng vẫn làm theo khách hàng. 
Xong ông bảo 
chúng chạy một vòng quanh chợ Bến Thành. 
 
Đến chừng đã ưng ý, ông kêu 
sốp-phơ chạy trở về hãng, xong mở mo cau ra đếm tiền, cả cọc giấy bạc bộ
 lư (loại 100 đồng Đông Dương). 
Bọn Tây trố mắt kinh ngạc, chúng đâu 
biết rằng, ông già nhà quê kia là một đại điền chủ giàu nhất Nam Kỳ khi 
ấy, ở xứ Bạc Liêu. 
 
Ông chính là Hội đồng Trạch (Trần Trinh Trạch) - 
người đang nắm trong tay hơn 100 ngàn hécta ruộng lúa và khoảng 50 ngàn 
hécta ruộng muối.
Ông Hội đồng Trạch mua xe mới là để đón đứa con đi học bên Tây thành tài
 về nước cho nó đúng điệu. Trước đó gia đình ông Trạch có chiếc Ford tuy
 chưa cũ nhưng đã thua kém xe của nhiều điền chủ khác, trong khi chiếc 
Chevrolet chỉ mới Vua Bảo Đại có. 
Chiều ngày hôm trước, người tài xế lái
 chiếc Ford đưa ông bà Hội đồng Trạch và mấy người con từ Bạc Liêu lên 
Sài Gòn, đêm ngủ ở khách sạn Nam Kỳ, để sáng nay đi mua xe hơi. Ngày hôm
 sau “cậu Ba” Quy sẽ về đến cảng Sài Gòn.
Vào đầu tháng 7, cậu Ba Quy đánh dây thép từ Pháp về cho biết đã học 
“thành tài” và chuẩn bị lên tàu về nước. Tin đó làm xôn xao Nhà 
Lớn (Nhà Lớn là tên mà người dân Bạc Liêu đặt cho tòa nhà đồ sộ, nguy 
nga nằm bên sông Bạc Liêu). 
Đó là một biệt thự lớn, có lầu, kiến trúc 
theo kiểu Tây, tuy thua về diện tích khuôn viên, nhưng về kiến trúc và 
mức độ đồ sộ thì ăn đứt dinh thự của quan chủ tỉnh người Tây. Đó là cơ 
ngơi của ông đại điền chủ Trần Trinh Trạch.
Và cái ngày ông Hội 
đồng Trạch cho sửa soạn lại nhà cửa, trang hoàng thật lộng lẫy, để đón cậu quí tử du học từ Pháp "vinh quy bái tổ" đã đến. 
Thế là, một mặt 
ông sắm chiếc xe hơi loại mới nhất để ra bến cảng Sài Gòn đón cậu Ba Quy
 đưa về Bạc Liêu.
Lái xe, lái cả máy bay
Chiếc tàu Aramis của hãng Messageries Maritimes chạy tuyến Marseille - 
Sài Gòn cập bến vào lúc 9h sáng ngày 10.8.1930. Bến cảng Nhà Rồng đông 
nghẹt người tới đón thân nhân từ Pháp về. Gia đình Hội đồng Trạch đi 
trên 2 chiếc xe Huê Kỳ ra bến cảng đón con: 
Chiếc Ford đi bấy lâu và 
chiếc Chevrolet mua ngày hôm trước. 
 
Trong bãi xe đậu trên bến cảng, 
chiếc Chevrolet của Hội đồng Trạch là nổi bật hơn cả, thiên hạ kéo tới 
trầm trồ ngắm nhìn. Sau mấy hồi còi vang dài trên sông Sài Gòn, chiếc 
tàu Aramis xuất hiện, từ từ rẽ sóng tiền về bến Nhà Rồng. Từ trên boong 
tàu, cậu Ba Quy xuất hiện thật sang trọng, giống như tài tử trên màn bạc
 trong rạp chiếu bóng. 
Vừa ôm chầm lấy con, ông Hội đồng Trạch vừa hỏi: 
“Mầy coi oai như Tây. Có dẫn con đầm nào dzìa hông?”. Cậu Ba lắc đầu, mắt
 đượm buồn vì ông Hội đồng Trạch đã vô tình gợi lại cảnh chia ly giữa 
cậu và mẹ con cô gái Tây tên Maria trên bến cảng Marseille cách đó gần 1
 tháng.
Ba Quy hơi bất ngờ khi được gia đình đưa tới chiếc Chevrolet mới toanh, 
loại xe này ở bên Pháp chỉ những nhà quý tộc mới dám mua. 
Ba Quy không 
chịu chui vào hàng ghế sau ngồi cùng cha, mà đẩy sốp-phơ sang một bên, 
rồi ngồi vào sau vô-lăng, trước cặp mắt kinh ngạc của ông Hội đồng 
Trạch: “Mầy cũng biết chạy xe nữa à?”. 
Không nói không rằng, Ba Quy 
depart rồi từ từ lăn bánh một cách điệu nghệ. Trên con đường thiên lý từ
 Sài Gòn về miền Tây, chiếc Chevrolet chạy như bay, qua mặt tất cả các 
xe đò lục tỉnh. Tốc độ tăng lên 80, rồi 90km/h, chiếc Chevrolet bỏ lại 
sau lưng những chiếc xe đò của các hãng Ứng Ký, Đại Đồng nổi tiếng anh 
chị.
Thuở ấy, xe đò Ứng Ký có sốp-phơ Ba Thẹo nổi tiếng cừ khôi, chưa từng 
thua bất cứ xe nào trong các cuộc đua trên con đường thiên lý. 
Khi thấy 
có chiếc xe Huê Kỳ thúc đít, Ba thẹo cười ngạo nghễ lạng qua lạng lại, 
ra chiều chọc tức chiếc xe phía sau, vừa chạy hết tốc lực, vừa cản đường
 không cho qua. 
Nhưng chỉ vài đường lạng lách là chiếc Chevrolet vọt qua
 như ánh chớp. Sôp-phơ Ba Thẹo trố mắt nhìn người lái xe mặc áo veste, 
đeo cà-vạt, mắt kính gọng vàng, đầu đội nón Mossant có giá bằng tiền 
lương sốp-phơ cả tháng.
Ông Hội đồng Trạch chỉ biết bấu tay vào thành ghế, nhiều lúc không dám 
mở mắt khi Ba Quy đua cùng xe đò. Đến khi qua được chiếc xe đò, ông Hội 
đồng Trạch mới thở phào nhẹ nhõm, hỏi con: “Thằng Ba mầy học hồi nào mà 
lái còn hơn sốp-phơ xe đò?”. 
Ba Quy trả lời: “Con còn lái được cả máy 
bay nữa kìa. Ở bên Tây các chủ điền lớn thường đi thăm ruộng bằng máy 
bay. Mai mốt con sẽ mua máy bay để lái đưa ba đi thăm ruộng như ở bên 
Tây”.
Ông Hội đồng Trạch đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Khi đi đón con, 
ông cũng lo sợ cậu Ba Quy qua Tây chỉ ăn chơi lêu lổng chứ không học 
hành gì, như con một số điền chủ khác mà ông đã từng nghe nói. 
Đến bây 
giờ thấy cậu Ba Quy lái xe hơi như bay, lại còn lái được cả máy bay, ông
 đã có thể yên tâm. Ông Hội đồng Trạch còn chưa biết, ngoài 2 bằng lái 
xe và lái máy bay, Ba Quy còn có mấy tấm bằng chứng nhận về nhảy đầm, 
kết quả của 3 năm ròng ăn chơi bạt mạng giữa thủ đô Paris hoa lệ, ngoài 
ra không có bất cứ bằng cấp kỹ sư, bác sĩ gì cả.
Nhà Lớn mở tiệc
Sau một ngày ngơi nghỉ, ông Hội đồng Trạch bàn với cậu Ba Quy về việc 
đãi tiệc nhân ngày cậu học “thành tài” về nước. Ông Hội đồng Trạch tính 
mời tất cả người Pháp và giới đại điền chủ trong tỉnh và cả Nam Kỳ, 
nhưng chỉ mời đàn ông thôi, không mời vợ. 
Với đầu óc Tây học, cậu Ba Quy
 khuyên cha nên mời cả 2 vợ chồng, như thế Tây họ mới nể trọng, mà giới 
đại điền chủ Nam Kỳ cũng kính phục vì sự tân tiến của cha con Hội đồng 
Trạch. 
 
Cậu Ba Quy cũng không quên đề nghị tổ chức nhảy đầm. Cậu nói: 
“Đãi tiệc Tây mà 
thiếu nhảy đầm thì coi như mới đãi có một nửa. Cái gì chớ chuyện nhảy 
đầm thì các maitre-danseur (vũ sư) ở Paris đều phải kiêng nể con. 
Để đó 
con lo”. Chu đáo hơn, Ba Quy còn bàn với cha cho sốp-phơ đi Sài Gòn chở 
về 6 cô vũ nữ thượng hạng để cho khách tha hồ nhảy trong bữa đại tiệc. 
Cậu Ba cũng cho mời cánh nhà báo, cả Tây lẫn Việt, từ Sài Gòn xuống 
lăng-xê cho bữa tiệc.
Ngày đại tiệc đã tới. Khoảng 500 quan khách đến từ khắp tỉnh Bạc Liêu và
 cả Nam Kỳ ngồi kín vòng trong, vòng ngoài khu Nhà Lớn. 
Khách sạn Tràng 
An ở ngay đầu đường lớn nhất thị xã Bạc Liêu xe hơi đậu chật kín.
Xôm tụ
 nhất có lẽ là chiếc xe chở đám vũ nữ và cánh báo chí đến từ Sài Gòn. 
Cậu Ba chạy ra bắt tay từng nhà báo rồi đưa họ vào giới thiệu với các 
quan khách đã an vị. Thực đơn đãi tiệc toàn món Tàu do đầu bếp nhà hàng 
Chợ Lớn đích thân tới nấu.
Theo sắp xếp thì ông bà Hội đồng Trạch đứng ra chào đón quan khách, sau 
đó cậu Hai Đinh đọc diễn văn giới thiệu ý nghĩa của bữa đại tiệc là chào
 mừng ngày về của cậu B
Gia đình Hội đồng Trạch bấy giờ mới thấy hết 
giá trị của cánh nhà báo cả Tây cả ta. Họ đeo lỉnh kỉnh máy ảnh, ghi ghi
 chép chép, chia nhau đến mọi ngõ ngách của buổi tiệc, phỏng vấn người 
này, hỏi người kia, đưa máy ảnh lên hết chụp ông bà Hội đồng Trạch, tới 
chụp cậu Hai, rồi chụp cậu Ba. 
Chính cánh nhà báo đã làm cho buổi đại 
tiệc trở nên long trọng chưa từng thấy, các đại điền chủ khách chỉ biết 
há hốc mồm mà nhìn cha con Hội đồng Trạch phô diễn. 
Bấy giờ Hội đồng 
Trạch mới thấy phục “thằng Ba” con ông sát đất, nó học cao hiểu rộng, 
lường hết mọi chuyện, mấy trăm đồng ông bỏ ra để rước cánh nhà báo xuống
 dự tiệc quả là đáng đồng tiền bát gạo.
Cậu Ba Quy đọc diễn văn chào mừng và cảm ơn quan khách. Cậu soạn sẵn bài
 diễn văn cầm tay để chứng tỏ mình tôn trọng khách, nhưng chỉ cầm tờ 
giấy cho có lệ, còn lại cậu ứng khẩu phát biểu một bài toàn tiếng Tây 
lưu loát. 
Bài diễn văn vắn tắt nhưng sắc sảo đã làm vừa lòng mọi người, 
đại ý: 
Xứ Bạc Liêu quê mùa chứ người không quê; dân Nam có truyền thống 
trọng văn khinh võ, gia đình nào cũng cố gắng nuôi con ăn học thành tài 
theo truyền thống để cho con mớ chữ thánh hiền còn hơn để gia tài ruộng 
sâu trâu nái; gia đình Trần Trinh rất vinh dự khi trong buổi tiệc có sự 
hiện diện của các nhà trí thức đã khéo nuôi dạy con học thành tài như 
bác sĩ Lê Quang Trình, kỹ sư Bùi Quang Chiêu...
Rồi cậu Ba Quy chuyển sang cánh nhà báo với giọng chân tình, đại ý: 
Gia 
đình rất vinh dự được sự quan tâm của giới ngôn luận; các hiệp sĩ ngôn 
luận của quyền tự do thứ tư đã không ngại đường xa tới nơi cuối đất để 
chào mừng đứa con của đồng ruộng du học từ Pháp về; hai giới báo chí và 
nhà nông tuy xa cách nhau mà lại có điểm giống nhau là nhà nông lo cho 
bao tử, còn báo chí lo cho bộ óc của đồng bào; không có báo chí thì dân 
quê sống trong u tối, ngu dốt, nhờ có nhật trình mà đời sống nông thôn 
có chút ánh sáng văn minh... 
Bài diễn văn của Ba Quy được mọi người vỗ 
tay tán thưởng nhiều chập. Các nhà báo cả Tây lẫn ta đến bắt tay chúc 
mừng và cảm ơn Ba Quy vì đã đề cao nghề nghiệp của họ.
Đến phần phát biểu cảm tưởng của quan khách, mở đầu là quan tham biện 
chánh chủ tỉnh. 
Ông ta nói tiếng Pháp, cậu Ba Quy dịch sang tiếng Việt. 
Quan tham biện khen ngợi Hội đồng Trạch là người tiêu biểu nuôi con học 
hành đỗ đạt, điều đó minh chứng hùng hồn sứ mạng khai hóa của người 
Pháp. 
Sau đó, nhiều vị khách khác đã lần lượt lên chúc mừng gia tộc Trần
 Trinh vừa có hào con vừa có hào của.
Tiệc kéo dài đến tối, nối tiếp là buổi dạ vũ sôi động. Sáu cô vũ nữ từ 
Sài Gòn xuống là hạt nhân cho các quan khách cả Tây lẫn ta bu quanh. 
Buổi dạ vũ kéo dài suốt đêm, đèn điện sáng một góc thị xã, các ngọn cây 
trong vườn cũng được gắn hàng ngàn bóng đèn li ti đủ màu như bầy đom đóm
 lập lòe trên ngọn bần ven sông Bạc Liêu. 
Sáng hôm sau, cậu Ba tổ chức 
tắm biển Bạc Liêu cách đó chừng 7 cây số. Dân vùng biển Mỹ Thanh lần đầu
 tiên thấy người Sài Gòn mặc đồ tắm nhảy ùm xuống bãi biển nước đậm màu 
bùn. 
Cậu Ba đem theo nhiều súng hơi để cho khách trổ tài bắn cò, bắn 
chim đậu đầy quanh các vườn nhãn trên bãi biển. Rồi họ kéo vào các vườn 
nhãn đặc sản, loại trái to, cơm dày, hạt nhỏ để thưởng thức hương vị Bạc
 Liêu... 
Mọi người thầm thán phục, chỉ có cậu Ba Quy từ Pháp về mới tổ 
chức chu đáo đến nhường ấy, làm cho họ có một tiệc vui nhớ đời.
Trong bữa đại tiệc ngày 29.9.1930 tại Nhà Lớn mừng ngày cậu Ba Quy từ 
Pháp trở về, người ta thấy cậu Ba trao danh thiếp cho khách, trên đó 
ghi: 
Trần Trinh Huy - Proprietaire foncier - Bạc Liêu. 
Cậu Ba giải 
thích: Lật từ điển Hán - Việt ra xem, thấy “Quy” có nghĩa là rùa, nhưng 
cũng còn có nghĩa là quy đầu (của dương vật). 
Vẫn biết đó là bộ phận tối
 quan trọng của người đàn ông, không có nó thì không có sự sống, nhưng 
cậu Ba nhất định không chịu lấy nó làm tên cho mình, mà chọn một cái tên
 khác có âm gần giống là Huy. 
Chữ Huy ở đây có nghĩa là ánh sáng mặt 
trời, còn có nghĩa khác là ngọc (trong chữ huy thạch). 
Vậy là từ đó, cậu
 Ba Quy chính thức đổi tên là Trần Trinh Huy, cái tên gắn bó với danh 
tiếng Công tử Bạc Liêu còn lưu truyền đến hậu thế.
 Công tử Bạc Liêu đốt tiền để làm đuốc tìm tiền 
 
   
Trong
 hàng chục, hàng trăm “chiêu trò” làm cho Công tử Bạc Liêu lưu danh hậu 
thế, có lẽ câuchuyện “đốt tiền làm đuốc” là nổi bật hơn cả. 
 
Thật ra, so với khối tài sản khổng lồ khoảng 5 tấn vàng mà Trần Trinh Huy
 cả đời hoang phí thì chuyện “đốt tiền làm đuốc” chỉ như hạt cát trong 
sa mạc. Đó chỉ là tờ giấy bạc “con công” mệnh giá 100 đồng Đông Dương, 
tương đương với khoảng 15 triệu đồng hiện nay. 
 
Có thể nói, đây là “phi 
vụ” hiệu quả nhất của Công tử Bạc Liêu trong suốt cuộc đời mình - chi 
phí thấp nhất đem lại hiệu quả cao nhất. Nhưng trước hết, hãy nói về 
chuyện phung phí đầu tiên sau khi về nước của Ba Huy - mua máy bay đi 
thăm ruộng.
 
 
Người Việt Nam đầu tiên có máy bay riêng
 
 
Nếu không tính Vua Bảo Đại được trang bị máy bay riêng từ tiền ngân khố 
quốc gia lúc ấy, thì Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy là người Việt Nam 
đầu tiên có máy bay riêng. 
 
Từ Pháp trở về, sau khi được ông Hội đồng 
Trạch tổ chức đại tiệc để ra mắt giới quan chức, điền chủ khắp lục tỉnh 
Nam Kỳ, Ba Huy dành 3 tháng làm một chuyến du ngoạn khắp từ Nam chí Bắc 
bằng chính chiếc xe Chevrolet mà ông Hội đồng Trạch mới mua. Trong 
chuyến đi xuyên Việt này, Ba Huy có dịp xài tiền như nước, ước tính lên 
đến vài triệu đồng Đông Dương lúc đó, tương đương gần 10kg vàng.
 
 
Trở về Bạc Liêu, Ba Huy được ông Hội đồng Trạch tin cẩn giao cho cai 
quản cơ ngơi làm ăn của cả gia đình: Hơn 100 ngàn hécta ruộng lúa và hơn
 50 ngàn hécta ruộng muối ở Bạc Liêu và các tỉnh lân cận. 
 
Điều đó cũng 
dễ hiểu, trong số các con của Hội đồng Trạch, Ba Huy là người học cao 
hơn hết, lại chứng tỏ bản lĩnh, sự lịch lãm hơn người, vì vậy mà được 
cha tin tưởng giao trông coi toàn bộ cơ nghiệp của gia đình.
 
 
Tiếp nhận chuyện quản lý “vương quốc” đồng ruộng cò bay thẳng cánh này, 
Ba Huy thuyết phục ông Hội đồng Trạch mua máy bay để... đi thăm ruộng. 
Trước đó, ông Hội đồng Trạch đi thăm ruộng bằng xe hơi đối với đường bộ,
 hoặc bằng ghe máy khi phải đi trên sông, ông còn chưa nghĩ tới chuyện 
trang bị xuồng máy cao tốc. Ba Huy cho rằng như vậy là quá lạc hậu.
 
 
Thuở ấy, trên toàn nước Nam chỉ mới có Vua Bảo Đại là có máy bay riêng. 
Vua Bảo Đại thường dùng máy bay để bay từ Huế vào Sài Gòn đánh bạc, rồi 
bay lên Đà Lạt nghỉ ngơi, bay đi Buôn Ma Thuột săn thú... 
 
Bằng cách khéo
 léo thuyết phục rằng nếu dòng họ Trần Trinh không sớm sắm máy bay, các 
đại điền chủ khác sẽ sắm, gia tộc Trần Trinh sẽ mất cơ hội là gia đình 
đầu tiên ở nước Nam có máy bay (trừ Vua Bảo Đại).
 
Ba Huy đã thuyết phục 
được ông Hội đồng Trạch bỏ một núi tiền để mua máy bay. Một hợp đồng mua
 máy bay, loại 2 cánh quạt, 2 chỗ ngồi, đã được Công tử Bạc Liêu ký với 
hãng cung cấp máy bay của Pháp. Theo một vài nguồn thông tin, giá trị 
hợp đồng lên đến vài chục triệu đồng Đông Dương, tương đương hơn 100kg 
vàng.
 
 
Khi máy bay chưa về tới Sài Gòn, nhờ Ba Huy quan hệ tốt với cánh báo 
chí, vào ngày 24 tháng 6 năm 1932, trên tờ báo La Courrier Saigonnais đã
 loan tin giật gân Công tử Bạc Liêu mua máy bay với tít lớn ở trang 
nhất: “M.Tran Trinh Huy propriétaire à Baclieu possède un avion et il 
aménager une piste d atterrissage sur sa propriété à Camau”, có nghĩa 
“Ông điền chủ Trần Trinh Huy sắm một chiếc máy bay và làm sân bay trên 
đất của ông ở Cà Mau”. 
    
            |  | 
            | Ông Trần Trinh Đức bên chân dung của cha mẹ (Công tử Bạc Liêu và vợ) trong khách sạn Công tử Bạc Liêu ngày nay. | 
Người dân Sài Gòn và các điền chủ Nam Kỳ còn đang nửa tin nửa ngờ thì 
máy bay về tới Sài Gòn thật. Cũng bằng cách nhờ báo chí lăngxê, hình ảnh
 Ba Huy và chiếc máy bay “thứ hai ở Việt Nam” xuất hiện trang trọng trên
 trang nhất của nhiều tờ báo. 
Ba Huy đánh dây thép kêu tài xế chở ông 
Hội đồng Trạch từ Bạc Liêu lên Sài Gòn để đích thân Ba Huy lái máy bay 
đưa cha trở về Bạc Liêu. 
 
Đó lại là một ngày đáng nhớ của gia đình Hội 
đồng Trạch. Nhìn Ba Huy cho máy bay chạy “như bay” trên đường băng Tân 
Sơn Nhất, rồi nhấc mình khỏi mặt đất, ông Hội đồng Trạch chỉ biết ôm 
chặt thành ghế, chỉ sợ rớt xuống đất. 
Đến khi máy bay lấy độ cao, thăng 
bằng trở lại, ông mới dám mở mắt ra.
Lần đầu tiên được bay lên trời, ông Hội đồng Trạch vừa mừng vừa lo, 
không biết thằng con Ba Huy có bay được về tới Bạc Liêu không. 
Ông mặc 
áo dài khăn đóng đàng hoàng, như thể đi lễ hội. Ba Huy chưa vội trực chỉ
 hướng Tây Nam, mà cho máy bay lượn một vòng quanh thành phố Sài Gòn - 
Chợ Lớn và chỉ cho ông Hội đồng Trạch đâu là sông Sài Gòn, đâu là Chợ 
Lớn, ngoài xa là biển Đông...
Từ trên mây nhìn xuống đất, ông Hội đồng Trạch không chớp mắt, ra chiều 
thú vị. Bất ngờ ông vỗ đùi cái đét nói: “Trên này ngó xuống đất chỉ thấy
 phía dưới mờ bụi đỏ. Mà “bụi đỏ” chữ Nho có nghĩa là “hồng trần”. Hèn 
chi người xưa nói cuộc đời là hồng trần, bây giờ đi máy bay tao mới 
hiểu”. 
Ba Huy mỉm cười giải thích: “Không hẳn vậy đâu ba. Tại bên dưới 
là vùng Gò Vấp đất đỏ, nên khi gió cuốn ba thấy mù bụi đỏ. Chút nữa tới 
vùng đồng bằng đất đen xứ mình, gió cuốn bụi đen sì, lúc đó đâu còn là 
hồng trần”.
Máy bay lướt qua sông Tiền, rồi sông Hậu, cậu Ba Huy hướng máy bay về 
phía Sóc Trăng, nơi đó có Bãi Xào, là một trong những sở đất trồng lúa 
lớn nhất của ông Hội đồng Trạch. Xong, Ba Huy bay ra phía biển, cho máy 
bay bay cặp theo bờ biển hướng về phía Bạc Liêu, bên dưới là những sở 
ruộng làm muối của Hội đồng Trạch chạy dài theo biển. 
Theo hướng chỉ tay của Ba Huy, ông Hội đồng Trạch thấy từ xa ở phía dưới
 là “châu thành Bạc Liêu”. Chiếc máy bay lượn mấy vòng trên bầu trời thị
 xã Bạc Liêu để cho ông Hội đồng Trạch thấy đâu là Nhà Lớn của mình, đâu
 là sông Bạc Liêu và chiếc cầu Quay bắc qua sông. 
Chiếc máy bay bay vòng
 tròn, theo hình trôn ốc, hạ thấp dần, lấy tâm là Nhà Lớn. Cả gia đình 
ông Hội đồng Trạch và dân thị xã Bạc Liêu đã được báo trước, họ đứng 
phía dưới vẫy chào chiếc máy bay đang lượn qua lượn lại trên đầu. 
 
Ý ông 
Hội đồng Trạch còn muốn “quần thảo” trên bầu trời Bạc Liêu thêm nữa, 
nhưng Ba Huy nhìn đồng hồ báo nhiên liệu rồi bảo với cha là “sắp hết 
xăng”, vì vậy ông Hội đồng Trạch mới chịu đi tiếp. 
Chiếc máy bay trực 
chỉ hướng thị xã Cà Mau, cách Bạc Liêu 60 cây số, nơi có sân bay cá nhân
 của gia đình Hội đồng Trạch vừa được xây dựng trước đó trên chính sở 
ruộng của mình. 
Từ Cà Mau, ông Hội đồng Trạch trở về Bạc Liêu bằng xe 
hơi, còn cậu Ba Huy thì ở lại với chiếc máy bay để hàng ngày bay đi thăm
 ruộng. 
Thường thì Ba Huy bay một mình, nói là thăm ruộng nhưng chủ yếu là để 
thỏa cái thú ăn chơi của mình. Thỉnh thoảng Ba Huy cũng lái máy bay đưa 
ông Hội đồng Trạch đi thăm các sở ruộng ở Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng. 
Có một lần Ba Huy một mình lái máy bay đi thăm ruộng ở Cà Mau. Cao hứng,
 Công tử Bạc Liêu bay dọc theo bờ biển về phía Rạch Giá, Hà Tiên, nơi 
không có ruộng nương nào cả của gia đình Hội đồng Trạch. 
Ba Huy phát 
hiện một điều thú vị, từ trên cao nhìn xuống, bờ biển Tây từ Cà Mau tới 
Rạch Giá như một đường thẳng chứ không gấp khúc như những bờ biển nơi 
khác.
Ba Huy cứ men theo đường thẳng ấy mà bay, để rồi mất phương hướng bay 
lạc sang Campuchia, bay tiếp qua cả Thái Lan. Máy bay hết xăng, Ba Huy 
xin đáp khẩn cấp xuống đất Thái Lan. Nhà chức trách Thái Lan đã phạt Ba 
Huy số tiền lớn về tội xâm nhập không phận trái phép.
Ba Huy đánh dây thép về Bạc Liêu, ông Hội đồng Trạch phải cho chở 3 
chiếc ghe chày loại lớn đầy lúa qua tận Thái Lan để nộp phạt chuộc Ba 
Huy và máy bay đem về. Ước tính số tiền nộp phạt khoảng vài ngàn đồng 
Đông Dương, tương đương khoảng 10kg vàng.
Trong các sử liệu không thấy ghi số phận sau này của chiếc máy bay của 
Công tử Bạc Liêu. Có người nói Ba Huy chơi mãi cũng chán nên bán rẻ lại 
cho người khác. Có người nói do sân bay ở gần vùng biển gió mặn nên sớm 
xuống cấp, rồi hư hỏng, Ba Huy phải bỏ “trồng hành”. Chỉ một thú tiêu 
khiển của Công tử Bạc Liêu đã ngốn mất hàng trăm ký vàng!
Công tử, có 2 công tử...
Việc Ba Huy chơi trội nổi tiếng ở đất Bạc Liêu đã làm không ít công tử 
con của đại điền chủ khác ở Nam Kỳ thấy nóng mặt. Không ít người trong 
họ muốn “thi đấu” với Công tử Bạc Liêu, nhưng chỉ có một người nổi lên 
ngấp nghé với đẳng cấp ăn chơi của Ba Huy, đó là Lê Công Phước (còn có 
tên George Phước, hay Công tử Mỹ Tho) - con ông Đốc phủ Lê Công Sủng ở 
tỉnh Mỹ Tho (Tiền Giang ngày nay). 
Người đời gọi Lê Công Phước là Công 
tử Mỹ Tho để phân biệt với Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy. Cũng có 
nhiều người gọi George Phước là Bạch công tử (vì có nước da trắng) để 
phân biệt với Hắc công tử Trần Trinh Huy (vì có nước da ngăm đen).
Lê Công Phước sinh năm 1900, còn Trần Trinh Huy sinh năm 1901. 
Họ cùng 
du học bên Pháp và cùng ăn chơi nổi tiếng ở giữa Paris tráng lệ. Nếu như
 Ba Huy học nhảy đầm và lái máy bay thì George Phước vì mê cải lương nên
 theo học “hàm thụ” về sân khấu. 
  
Ba Huy nổi tiếng trong các vũ trường, 
thì George Phước hay la cà trong các nhà hát nổi tiếng. Cả hai cùng nổi 
tiếng đào hoa, Ba Huy sống như vợ chồng với một cô gái Pháp chính hiệu 
và có với nhau một người con, còn George Phước lại cặp kè với một cô gái
 Nga có dòng dõi Sa hoàng, đẹp như hoa hậu.
Bên Pháp, Ba Huy và George Phước có quen biết nhau, vì cùng là dân “lục 
tỉnh Nam Kỳ” và cùng ăn chơi nổi tiếng. Sau khi về nước, Ba Huy sắm xe 
hơi đắt nhất Nam Kỳ, rồi mua cả máy bay để đi thăm ruộng, trở thành 
người Việt Nam đầu tiên sở hữu máy bay tư, thì George Phước cũng chọn 
cách chơi nổi không kém, ông sắm cho mình cả một đoàn hát cải lương và 
cho đóng những chiếc du thuyền sang trọng để đưa đoàn cải lương đi hát 
khắp Nam Kỳ.
Thời ấy, cải lương rất được trọng vọng ở miền Tây Nam Bộ, vì vậy mà đoàn
 cải lương Huỳnh Kỳ của George Phước với trang bị hiện đại như những 
đoàn ca kịch bên Pháp, đã làm cho tên tuổi của George Phước nổi như cồn,
 không thua kém Ba Huy. Vì vậy mà 2 “con hổ” về món ăn chơi ở miền Tây 
Nam Bộ này trở thành kỳ phùng địch thủ, ai cũng muốn mình nổi hơn người 
kia. Để rồi hễ có dịp là họ lao vào cuộc tỉ thí để phân định đẳng cấp.
Vì cả hai cùng giàu có (gia đình Ba Huy giàu hơn gia đình George Phước),
 nên hai tay công tử lừng danh nhất Nam Kỳ này tỉ thí với nhau chính là 
ném tiền ra để chinh phục người đẹp. 
Thuở ấy, có một người phụ nữ được 
phong “Hoa hậu Đông Dương” tên là Trần Ngọc Trà, thường gọi là cô Ba 
Trà. Cô Ba Trà đẹp đến nỗi Ngân hàng Đông Dương lúc đó đã in hình của cô
 trên giấy bạc; 
Nhà Dây thép cho vẽ hình cô để in thành tem thư. Cô Ba 
Trà thực sự là một bà hoàng không ngai làm các ông phủ, ông huyện, các 
công tử, thầy thông, thầy ký đều nhìn cô thán phục, thèm thuồng...
Công tử Bạc Liêu và Công tử Mỹ Tho vì vậy mà cũng lao vào cuộc chinh 
phục cô Ba Trà để chứng tỏ đẳng cấp của mình. Người đời kể rằng, hễ Hắc 
công tử tặng cô Ba Trà món đồ gì quý, thì Bạch công tử cũng tìm mua cho 
kỳ được món quà đắt hơn để tặng. 
 
Để rồi Công tử Bạc Liêu cũng làm tương 
tự, vì vậy mà cô Ba Trà được tặng không biết bao nhiêu quà tặng quý giá 
của hai người đàn ông ăn chơi nhất Nam Kỳ, từ quần áo hàng hiệu, dây 
chuyền, nhẫn hột xoàn, thậm chí cả nhà cửa, xe hơi.
Tính ra, Công tử Bạc Liêu đã “ném” vào cô Ba Trà khoảng chục triệu đồng 
Đông Dương, tương đương 40 - 50kg vàng. Dù vậy, hai vị “đại công tử” 
không ai chinh phục được trái tim của cô Ba Trà. 
Cô Ba Trà chọn một 
người đàn ông khác làm chồng và cuộc đời của cô cũng kết thúc trong 
nghèo khó không khác gì hai vị “đại công tử” từng đổ hàng đống tiền để 
cung phụng cô.
Người đời sau ít ai ngờ rằng người nghệ sĩ đáng kính - NS Phùng Há 
cũng từng có một thời liên quan đến 2 vị “đại công tử” nói trên. 
Bà là 
một nghệ sĩ cải lương lừng danh vào thập niên 1930, cũng được cả Công tử
 Bạc Liêu và Công tử Mỹ Tho thi nhau chinh phục, nhưng cuối cùng phần 
thắng thuộc về Công tử Mỹ Tho. 
Nghệ sĩ Phùng Há bắt đầu nổi tiếng vào 
đầu thập niên 1930 và tên tuổi của bà tiếp tục tỏa sáng trên bầu trời 
nghệ thuật cải lương cho đến khi qua đời vào năm 2009, thọ 98 tuổi. Bà 
chính là người nghệ sĩ có đóng góp nhiều nhất cho cải lương trong thế kỷ
 XX. 
 
Công tử Mỹ Tho không giàu bằng Công tử Bạc Liêu, nhưng lại được học
 hành bên Pháp về nghệ thuật sân khấu và là đồng hương Mỹ Tho của cô Bảy
 Phùng Há, nên đã chiến thắng trong cuộc đua chinh phục trái tim người 
nghệ sĩ tài danh này.
Cô Bảy Phùng Há trở thành vợ của George Phước trong 7 năm, sinh được 2 
đứa con, nhưng cũng phải chịu  đau khổ cùng cực vì thói ăn chơi sa đọa 
của chồng. Hai đứa con của họ đã chết trong những ngày đau khổ ấy. Về 
sau họ chia tay, Bạch công tử trở nên nghèo khó, chết không đất chôn.
Về cuối đời, vào năm 2001, bà Phùng Há đã cất công đi tìm được mộ Bạch 
công tử - một ngôi mộ đất bỏ hoang, để xây mồ mả đàng hoàng cho người 
chồng cũ. Cũng chính cô Bảy Phùng Há đã là duyên cớ để Công tử Bạc Liêu 
và Công tử Mỹ Tho thi thố chuyện đốt tiền, để lại giai thoại thuộc loại 
nổi tiếng nhất trong lịch sử ăn chơi bạt mạng của những công tử trên đất
 Nam Kỳ.
Đốt tiền làm đuốc tìm tiền
Câu chuyện có thật này xảy ra ở thị xã Bạc Liêu và nhanh chóng được đồn 
thổi khắp Nam Kỳ, lên cả mặt báo. Đó là lần gánh hát Huỳnh Kỳ do Công tử
 Mỹ Tho mới thành lập về hát ở Bạc Liêu, gần nhà của Công tử Bạc Liêu. 
Lúc đó cô Bảy Phùng Há là đào chính của gánh hát Huỳnh Kỳ, nhưng chưa 
thành vợ của George Phước. Cả Ba Huy và George Phước cùng đang theo 
đuổi, chinh phục người nữ nghệ sĩ tài năng. Vì là chỗ quen biết, cũng là
 để khoe mẽ, nên khi gánh hát Huỳnh Kỳ của mình về Bạc Liêu, Công tử Mỹ 
Tho đã đích thân đến Nhà Lớn mời Công tử Bạc Liêu đến xem tuồng hát.
Vở diễn kéo màn, hai vị “đại công tử” ngồi gần nhau trên hàng ghế đầu, 
xung quanh là nhiều quan chức tỉnh Bạc Liêu. Trong lúc mọi người đang 
say sưa hướng mắt về sân khấu xem cô Bảy Phùng Há xuống câu vọng cổ ngọt
 ngào trong vở cải lương “Lữ Bố - Điêu Thuyền”, George Phước rút thuốc 
hút, tình cờ làm rơi tờ giấy bạc “bộ lư” (mệnh giá 5 đồng Đông Dương) 
xuống nền. 
Công tử Mỹ Tho cúi xuống tìm nhặt tờ giấy bạc, nhưng trong 
rạp ánh sáng lờ mờ, nên tìm hoài không được.
Công tử Bạc Liêu thấy lạ hỏi: “Toa làm gì đó?”. “Moa làm rớt tờ giấy 
bạc” - Công tử Mỹ Tho trả lời. Trong bóng tối, không ai nhìn thấy một 
thoáng nhíu mày toan tính của Công tử Bạc Liêu.
Như phát hiện ra điều gì đó thú vị, Ba Huy mỉm cười, rồi không nói không
 rằng, bất ngờ móc túi lấy tờ giấy bạc “con công” (mệnh giá 100 đồng 
Đông Dương, tương đương khoảng 15 triệu đồng hiện nay) rồi lạnh lùng bật
 hộp quẹt đốt để làm “đuốc” soi cho Công tử Mỹ Tho tìm tờ giấy bạc bị 
đánh rơi.
Chuyện “đốt tiền làm đuốc” diễn ra trước mắt nhiều người, toàn là dân có
 máu mặt, nên sau đó họ đồn thổi thành chuyện ly kỳ giữa Công tử Bạc 
Liêu và Công tử Mỹ Tho. George Phước bị chơi một vố quá nặng, quá mất 
mặt trước mọi người. 
Chuyện kể tiếp rằng, do bị thua một vố quá đau trong vụ đốt tiền làm 
đuốc ở Bạc Liêu, nên Bạch công tử tìm cách trả đũa lại Hắc công tử và 
ông đã ra lời thách đấu, cũng liên quan đến chuyện đốt giấy bạc. 
Đó là 
thi nhau đốt giấy bạc để nấu nồi chè đậu xanh, ai nấu nồi chè sôi trước 
người ấy thắng. 
Hắc công tử đã nhận lời thách đấu và cuối cùng George 
Phước đã chiến thắng, đòi lại được món nợ trong rạp hát ngày nào. Sau 
này có nhạc sĩ đã dựa vào giai thoại trên để viết bài hát về Công tử Bạc
 Liêu “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu”.
Một lần, người viết bài này đã có buổi tối ngồi nhậu rượu đế với ông 
Trần Trinh Đức - năm nay 65 tuổi, con trai Công tử Bạc Liêu Trần Trinh 
Huy. 
Theo lời ông Đức thì lúc còn sinh thời của Công tử Bạc Liêu, ông 
Đức đã từng hỏi cha về các giai thoại đốt tiền nói trên. Công tử Bạc 
Liêu xác nhận với con có chuyện đốt tờ giấy bạc làm đuốc trong rạp hát, 
như là cách ông chơi trội đối với George Phước. 
Còn chuyện thi đốt tiền 
nấu chè đậu xanh thì đúng là George Phước có thách thức thật, nhưng Công
 tử Bạc Liêu đã từ chối khéo.
Ông nói với con: “Để tiền chơi gái sướng hơn, chứ tội gì đốt cả đống 
tiền để nấu chè. Chưa biết chừng Tây nó nghe chuyện bắt bỏ tù cũng nên 
vì tội hủy hoại nhiều giấy bạc. 
    
        
            
 
 
  
Không ai có thể đếm được hết số vợ và con của Công tử Bạc Liêu. Là một 
người đàn ông ăn chơi nổi tiếng cả ở Pháp và Việt Nam, Ba Huy đã để lại 
“dọc đường gió bụi” không biết bao nhiêu mối tình, không biết mấy chục 
đứa con rơi. Bài viết sau đây chỉ điểm lại những mối tình có để lại “dấu
 ấn”, tức có con cái, được gia tộc Trần Trinh thừa nhận. 
 
  
 
Người vợ đầu tiên
Ba Huy chính thức cưới vợ vào năm 1934, một cô gái Bạc Liêu chính hiệu. 
Nhưng trước đó 10 năm, Ba Huy đã có con với một cô gái Pháp. Một ngày 
đầu năm 1936, tức gần 6 năm sau khi Ba Huy từ Pháp trở về Bạc Liêu, tại 
Nhà Lớn xảy ra một chuyện làm xôn xao cả tỉnh Bạc Liêu. Một chiếc xe 
“Huê Kỳ” sang trọng đậu lại trước cổng Nhà Lớn. Một người Pháp bước 
xuống xe, hỏi tìm Trần Trinh Huy. 
Ba Huy bất ngờ khi nhận ra đó là người bạn thân tên Francois làm việc ở 
Sở Hỏa xa Sài Gòn mà Ba Huy quen lúc “du học” bên Pháp. Họ siết chặt tay
 nhau mừng rỡ, Ba Huy hỏi: “Ngọn gió nào đưa toa tới xứ Bạc Liêu heo hút
 của moa?”. Francois chỉ vào chiếc xe còn đang nổ máy: “Ngọn gió từ 
Paris chứ còn ngọn gió nào”. 
Ba Huy giật mình, mặt biến sắc khi nhìn vào ghế sau chiếc xe hơi, trong 
ấy có một phụ nữ Pháp và một cậu bé. Sau đó, người đàn ông nổi tiếng 
phong lưu Ba Huy cũng lấy lại bình tĩnh, mở cửa xe cho hai mẹ con cô gái
 Pháp bước xuống. 
Ba Huy và cô đầm ôm hôn nhau thắm thiết ngay trước mắt
 mọi người. Mọi người trong Nhà Lớn và người dân xung quanh thấy lạ, bu 
coi như coi hát. 
Sau khi hôn hít “như Tây”, cô đầm kéo đứa bé cùng đi tới trước Ba Huy 
nói: “Đây là thằng Richard con của anh. Lúc anh rời Paris nó còn bồng 
trên tay, nay đã lên 6 tuổi”. Cậu Ba Huy không kiềm được xúc động, cúi 
xuống ôm thằng bé vào lòng. Đứa bé mang 2 dòng máu Pháp -Việt cao lớn 
hơn bình thường, mới 6 tuổi mà nó đã cao ngang ngực cha. 
Một cách tự tin, Ba Huy dắt mẹ con cô đầm và người bạn Pháp tới trước 
mặt ba má thưa: “Thưa ba má, đây là hai mẹ con cô Marie và cậu bé 
Richard. 
Trong thời gian sống bên Pháp, con có tình yêu với cô Marie và 
có được đứa con tên là Richard. Nhưng con nhớ lời ba dặn trước khi đi 
Pháp là “không được cõng về nhà con đầm hái nho”, nên ngày con về nước 
đã để lại cho 2 mẹ con Marie một số tiền sinh sống, chứ không đưa về 
Việt Nam”. 
    
            |  | 
            | Anh Trần Trinh Đức - con người vợ thứ ba của Công tử Bạc Liêu. | 
Chuyện Ba Huy có “vợ đầm”, ông bà Hội đồng Trạch có nghe đám gia nhân 
xầm xì bàn tán, nhưng chưa khi nào nghe chính miệng Ba Huy thú nhận. 
Thực ra trong 3 năm sống ở Paris, không kể những cô đầm “bán hoa”, Ba 
Huy có tổng cộng 5 mối tình, tức có yêu thương nhớ nhung, có thời gian 
đủ dài sống bên nhau, họ toàn là gái Pháp.  
Đậm nhất và lâu bền nhất 
trong số đó là cô gái làm nghề caissier (thu ngân) có mái tóc màu vàng 
kim. Thuở mới chân ướt chân ráo từ Việt Nam sang Pháp, Ba Huy tỏ ra hứng
 thú khi các đàn anh đi trước mách bảo “chơi cho biết mùi Pháp”, “trả 
thù dân tộc”... 
Nhờ có sẵn tiền rủng rỉnh trong túi, Ba Huy không khó để cặp bồ với các 
cô đầm mắt xanh mũi lõ. Một lần, khi đến tiệm càphê nổi tiếng nằm bên bờ
 sông Siene, Ba Huy bị ánh mắt sâu thẳm của cô caissier hớp hồn. Vậy là 
quán càphê bên bờ sông bỗng mọc lên “cây si” để cho cậu công tử đến từ 
vùng đất xa xôi Bạc Liêu hằng ngày tới đứng tựa. 
Tung hàng đống tiền ra chinh phục, Ba Huy dễ dàng “cưa đổ” cô gái Pháp 
xinh đẹp, gia đình nền nếp. 
Ban đầu Ba Huy tính chơi qua đường cho vui, 
nhưng rồi Ba Huy thấy yêu thương Marie thật sự, chủ động để cho có con 
và đặt tên là Richard. Khi cậu bé được 7 tháng, Ba Huy phải lên đường về
 nước. 
Ba Huy đánh dây thép về nước kêu gia đình gửi qua một lượng tiền 
lớn, tương đương hàng chục ký vàng, nói là chi phí “kết thúc du học”, 
thực tế là để lại cho mẹ con Marie sinh sống. Trở về nước, với bao công 
việc và bao mối tình mới, Ba Huy không có thời gian để nhớ tới cô gái 
Pháp và đứa con rơi ở Paris.
Bà Hội đồng ngoắc đứa bé đến ôm trong vòng tay, bà nói: “Vậy ra đây là 
cháu nội đích tôn của mình!”. 
Cô Marie nãy giờ đứng im lặng chờ xem phản
 ứng của gia đình “chồng”, thấy thái độ của họ ra vẻ thân thiện, cô an 
tâm, nói với con bằng tiếng Pháp: “Con chào ông bà đi con!”. 
Ông Hội 
đồng Trạch miễn cưỡng phải nhìn nhận cháu nội, nhưng cũng thở dài mắng 
yêu cậu Ba Huy: “Cái thằng Ba này, muốn là làm, bất kể “quân thần”!”. 
Sự thể đã rồi, Ba Huy đã có con với cô đầm, nay hai mẹ con đã tìm tới 
đây, gia đình cũng đã nhìn nhận cháu nội. 
Nhưng ông bà Hội đồng Trạch 
cảm thấy không ổn vì Ba Huy vừa mới cưới vợ, ông bà Hội đồng Trạch vừa 
mới kết thông gia với ông Bá hộ Mín, nếu xử sự không khéo rất dễ mếch 
lòng, rồi người ta nói ra nói vào, ảnh hưởng thanh danh gia đình. 
Bàn 
tới tính lui, cuối cùng Ba Huy quyết định chỉ để 2 mẹ con Marie ở lại 
Bạc Liêu một thời gian, rồi cho hai mẹ con một số tiền lớn để về Pháp 
sống. Tin không chính thức cho hay số tiền đó tương đương vài chục
 ký vàng - đủ để Marie sống và nuôi Richard ăn học tới tuổi trưởng 
thành.   
 
Những người vợ được cưới hỏi
 
 
Người vợ đầu tiên của Ba Huy được cưới hỏi đàng hoàng tên Ngô Thị Đen, 
con của một ông bá hộ giàu có trong vùng. Biết tính chồng phong lưu, đào
 hoa, bà Đen âm thầm chịu đựng. Bà về làm dâu gia tộc Trần Trinh năm 
1934, ba năm sau mới sinh được một người con gái đặt tên là Trần Thị 
Lưỡng.
 
 
Có thể do số bà hiếm con, cũng có thể do Công tử Bạc Liêu chồng bà quá 
“dọc đường gió bụi” mà bà Đen chỉ có với Ba Huy một đứa con duy nhất. 
 
Bà
 Đen sống âm thầm, tự làm cái bóng mờ bên cạnh người chồng lúc nào cũng 
nổi đình nổi đám. 
Bà dồn hết thời gian, tâm trí để lo cho đứa con gái. 
Nhờ đó mà cô Lưỡng đã ăn học đàng hoàng, chứ không ăn chơi lêu lổng như 
những đứa con khác của Công tử Bạc Liêu. 
 
 
Cô Hai Lưỡng được đưa lên học trường trung học Couvent des Oiseaux (Chim
 Non) ở Đà Lạt, nơi được giới giàu có, quan chức khắp Nam Kỳ đưa con tới
 học. 
 
Tại Đà Lạt, cô nữ sinh Trần Thị Lưỡng đã gặp và phải lòng anh sinh
 viên trường Yersin tên Trần Duy Quang, người mà sau khi tốt nghiệp đại 
học đã được Vua Bảo Đại chọn làm thư ký riêng.
 
Thế nhưng, cuộc hôn nhân 
với thư ký của Vua Bảo Đại không kéo dài được lâu, cô Hai Lưỡng đi tiếp 
bước nữa với một viên chức người Pháp và cô theo chồng về định cư bên 
Pháp cho tới cuối đời. 
 
 
Từ khoảng năm 1955, khi đã quá chán ngán cái cảnh “chồng chung” bởi Công
 tử Bạc Liêu có hết bà vợ này tới bà vợ khác, bà Ngô Thị Đen đã rời bỏ 
Bạc Liêu để qua Pháp sống với con gái Trần Thị Lưỡng. 
 
Từ đó cho tới khi 
qua đời vào năm 1972, bà Đen chỉ về Bạc Liêu vài ba lần vào các ngày đám
 tang của cha mẹ hai bên. 
 
Bà Đen mất tại Thụy Sĩ và được chàng rể Pháp 
thuê máy bay Dacota chở quan tài về Sài Gòn, rồi đưa về an táng ở Bạc 
Liêu trong khu mộ của gia tộc Trần Trinh.
 
 
Người đàn bà thứ hai được Ba Huy cưới hỏi là một cô gái đẹp trên Sài Gòn
 (không rõ họ tên của bà). Bà có với Ba Huy hai đứa con (một trai, một 
gái), đặt tên là Hiếu và Thảo. Cô Thảo giống mẹ, xinh đẹp và dịu dàng, 
khi lớn lên đã lập gia đình với một người đàn ông trí thức, về sau là 
Chánh án Tòa án Biên Hòa.
 
Một người vợ được cưới hỏi tiếp theo của Ba Huy gốc người Mỹ Tho, tên 
Trần Thị Hai. Bà Hai ở với Công tử Bạc Liêu sinh được 2 người con trai, 
đặt tên là Trần Trinh Nhơn và Trần Trinh Đức. 
Anh Trần Trinh Đức là hậu 
duệ duy nhất của Công tử Bạc Liêu hiện nay đang sống ở quê nhà Bạc Liêu,
 nhưng sống nghèo khó, vừa mới được trao “nhà tình thương”. 
 
Người vợ cuối cùng
 
Người vợ cuối cùng được Ba Huy cưới hỏi đàng hoàng nhỏ hơn ông tới 40 
tuổi. Bà tên Nguyễn Thị Ba, xuất thân trong gia đình nghèo, sống bằng 
nghề gánh nước mướn ở cạnh công viên Tao Đàn - Sài Gòn. 
 
Công tử Bạc Liêu cưới bà Ba lúc ông đã ngoài 60 tuổi, bà Ba mới ngoài 
hai mươi. Đó là vào khoảng năm 1961, Ba Huy sống một mình trong căn biệt
 thự ở đường Taberd (Nguyễn Du ngày nay) Sài Gòn. 
Một buổi chiều, khi 
đứng trên bao lơn ngôi biệt thự hóng gió, bỗng Ba Huy nhìn thấy một cô 
gái gánh nước dưới đường. 
 
Khuôn mặt xinh xắn, vóc dáng khỏe mạnh, đôi ngực phập phồng, đôi mắt đen
 láy, mái tóc mượt đen của cô gái đã hớp hồn cụ già đa tình đang sống cô
 đơn. Công tử Bạc Liêu đêm về không ngủ được, cứ nhớ đến hình dáng của 
cô gái gánh nước mướn. 
 
Ba Huy lân la tìm hiểu và biết cô gái gánh nước mướn là con của ông già 
sửa xe đạp trước cổng công viên Tao Đàn. 
Ba Huy bước thẳng tới căn chòi 
vừa làm chỗ sửa xe, vừa làm chỗ ở của gia đình ông già, đặt thẳng vấn đề
 với người thợ sửa xe: “Con gái của ông đẹp quá! Người đẹp như vậy phải 
được sống trong giàu sang nhung lụa, chứ không thể sống nghèo nàn, gánh 
nước mướn như vầy. 
Tôi có thể làm cho cha con ông sống sung sướng nếu 
ông chịu gả con gái ông cho tôi. Sau khi con ông về làm vợ tôi, tôi sẽ 
tặng ông căn phố lầu để gia đình ông sống đàng hoàng”. 
Trước khi chia 
tay ông già sửa xe đạp, Ba Huy để lại danh thiếp và một số tiền “trà 
nước” tương đương cả lượng vàng.
Hai hôm sau Ba Huy quay trở lại, lúc ấy cô gái gánh nước mướn đã đứng 
lấp ló phía phòng trong, chỉ đợi cha kêu là bước ra chào khách. 
Một 
tháng sau đám cưới diễn ra ở một nhà hàng sang trọng ở Sài Gòn. Ba Huy 
giữ đúng lời hứa, tặng cho cha vợ cả ngôi phố lầu ở trung tâm Sài Gòn có
 giá trị cả ngàn lượng vàng (khoảng 50kg). 
Ba Huy sống với bà Ba hơn 10 
năm cuối đời khi sức đã tàn, lực đã kiệt (Công tử Bạc Liêu mất năm 73 
tuổi), nhưng cũng còn đủ sức để có với bà 4 người con, được đặt tên rất 
kêu là Hoàng - Toàn - Trinh - Nữ. 
 
Đó là những người vợ được Ba Huy cưới hỏi đàng hoàng, được gia tộc Trần 
Trinh thừa nhận, những đứa trẻ ra đời từ cuộc hôn nhân giữa họ với Công 
tử Bạc Liêu đều được đưa về Nhà Lớn để ra mắt họ hàng. 
Ba Huy còn có 
những mối tình để lại hậu quả, tức người phụ nữ có con với ông, nhưng vì
 không cưới hỏi chính thức, nên không được gia tộc Trần Trinh thừa nhận.
 Những giọt máu rơi ấy của Công tử Bạc Liêu không được bước chân về Nhà 
Lớn, không được ông bà Hội đồng Trạch nhận làm cháu nội. 
Một lần, sau khi cô đầm Marie và cậu con trai Richard 
bỏ về Pháp, Ba Huy cảm thấy hụt hẫng, nên cưỡi ngựa vô ruộng điền ở vùng
 Cổ Cò tiêu khiển. 
 
            
 
Khi Ba Huy đang cỡi ngựa đi trên bờ đê, bất ngờ một ông tá 
điền đã lớn tuổi dẫn một đứa bé trai tới cúi chào Ba Huy: “Bẩm cậu Ba, 
con dẫn cháu ngoại con tới ra mắt cậu Ba”.  
 
Công tử Bạc Liêu hỏi ông già "thằng nhỏ con ai mà coi bộ mặt mày sáng sủa quá vậy". 
 
Ông già trả lời " Bẩm nó chính là con 
của cậu Ba". Ba Huy không chút bất ngờ trước lời nói của ông tá điền 
già, mà đưa tay lên bóp trán, như cố nhớ mình đã từng mây mưa với ai ở 
vùng này. 
 
Ông già nhắc giúp Ba Huy "cách đây 3 
năm, cậu Ba đi cúng đình ở Cổ cò, cóghé nhà con ở mé sông Hòa Tú để nghỉ
 chân. Con gái con lên bưng trà dưng cậu, cậu thấy ưng ý nên nói, nếu 
con chịu cho con gái làm vợ lẽ cho cậu, thì cậu xóa hết nợ cho con, còn 
cho con thêm mấy trăm giạ lúa. 
 
Cậu ở với con gái còn chừng một tháng, rối không thấy cậu quay lại nữa. Sau đó con gái con có bầu và sanh ra thằng nhỏ nầy. 
 
Bấy giờ Ba Huy mới nhìn kỹ thằng nhỏ, 
rồi gật gù công nhận nó có nhiều nét giống mình. Sau đó Ba Huy cho xuất 
cả ngàn giạ lúa, biếu ông tá điền già và cho thằng bé thật nhiều tiền để
 mua quần aó, bánh kẹo. Chỉ có vậy thôi, Ba Huy sau đó không một lần 
quay lại thăm con, cũng không cho nó bén mảng tới cửa Nhà Lớn.
 
  
Với cả một núi tài sản do ông Trần Trinh Trạch để lại ước tính tương 
đương trên 5 tấn vàng, Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy tha hồ hoang phí 
suốt cuộc đời. Đến khi ông lìa đời, khối tài sản ấy cũng vừa cạn. 
  
Đến đời các 
con của Công tử Bạc Liêu, cái nghèo đã quay lại với gia tộc Trần Trinh. 
Tính ra từ lúc phát giàu đến khi khánh kiệt, gia tộc Trần Trinh trải qua
 chưa tới 3 đời, ít hơn cổ nhân đã đúc kết.
Công tử Bạc Liêu hết “linh”
Vào cuối thập niên 1960, Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy đã về sống hẳn ở
 Sài Gòn với cô vợ cuối cùng, nhỏ hơn ông 40 tuổi, có với ông 4 người 
con, cùng những mối tình “vắt vai” chợt đến rồi chợt đi.  
Chuyện về Công 
tử Bạc Liêu cũng nổi tiếng ở đất Sài Gòn không kém gì ở xứ Bạc Liêu hay 
vùng nông thôn miền Tây Nam Bộ. 
 
Cuộc đời của Ba Huy dành thời gian nhiều
 nhất cho 2 thứ: Rượu và gái. 
Các nhà hàng sang trọng bậc nhất ở Sài Gòn
 như Soái Kình Lâm, Rex, Caravell, Bát Đạt... đều quen mặt Ba Huy, xem 
ông như người nhà. 
Sự giàu có, hào hoa, lịch lãm, chịu chơi... đã làm cho Công tử Bạc Liêu 
như có ma lực trong chốn tình trường, những bông hoa nào mới nhất, đẹp 
nhất ở những nơi ông hay lui tới đều phải dành cho ông. 
Thế nhưng, Ba 
Huy cũng có một lần thất bại, mà lại thất bại thảm hại, làm cho ông thất
 tình, suy sụp thật nhanh.
Một tối nọ, ông đến nhà hàng Soái Kình Lâm cùng vài người bạn để “giải 
sầu” bằng rượu Tây và nghe ca nhạc. 
Ba Huy chợt sững sờ trước ca sĩ trẻ 
T.T mới nổi, vừa ký hợp đồng phục vụ hàng đêm ở nhà hàng này. Đôi chân 
dài ẩn hiện trong chiếc váy ngắn, thân hình bốc lửa trong chiếc áo thun 
màu hồng bó sát và đặc biệt là đôi mắt long lanh, sâu thẳm như thôi miên
 Công tử Bạc Liêu. 
Cùng với sắc đẹp cháy bỏng ấy là giọng hát mượt mà 
trong các ca khúc lãng mạn buồn man mác của Lam Phương, Phạm Duy...
Lâu lắm rồi Ba Huy mới diện kiến một người con gái tài sắc vẹn toàn đến 
vậy, làm mê hồn người đàn ông đệ nhất đa tình Ba Huy. 
Ba Huy kêu người 
bồi bàn tới, dúi cho một nắm tiền và bảo: “Cậu nói với ca sĩ T.T có Công
 tử Bạc Liêu mời một ly rượu làm quen”. Thế nhưng, cô ca sĩ trẻ không 
mảy may đếm xỉa đến Công tử Bạc Liêu lừng danh đang dõi mắt về phía cô. 
Có thể cô ca sĩ trẻ kia chưa từng được nghe nói Công tử Bạc Liêu là ai, 
nên cô mới xúc xiểm như thế, Ba Huy tự an ủi. 
Đêm sau, Công tử Bạc Liêu một mình đến nhà hàng, ông đưa một xấp tiền 
dày cho chủ nhà hàng, rồi bảo: “Ông nói rõ cho cô T.T biết Công tử Bạc 
Liêu là ai rồi "bo" cho cô ta tất cả số tiền này. Bảo là tôi mời cô ta 
đến bàn uống một ly làm quen”. 
Người chủ nhà hàng đã hết lòng thuyết 
phục, nên đêm đó, sau khi trình diễn, ca sĩ T.T đến gật đầu chào, uống 
với Công tử Bạc Liêu một ly rồi lẳng lặng ra đi, chỉ để lại cho Ba Huy 
một ánh mắt vô hồn.
Không chịu thua, ngày hôm sau, Ba Huy lại đến nhà hàng vào lúc trưa, nói
 với người chủ: “Đêm nay, tôi muốn bao nguyên nhà hàng của ông, chi phí 
bao nhiêu tôi trả đủ. Ông chỉ dọn một bàn thật sang với thức ăn ngon 
nhất cho một thực khách, còn trên sân khấu thì chỉ có ca sĩ T.T hát phục
 vụ”. 
Chủ nhà đăm chiêu trả lời: “Thưa công tử, doanh số của nhà hàng 
tôi một đêm đến 100 ngàn đồng lận...”. Công tử Bạc Liêu móc ngay 100 
ngàn đồng (tương đương gần nửa ký vàng) ra đập xuống bàn. 
Đêm ấy, Công tử Bạc Liêu một mình ngồi giữa nhà hàng rộng mênh mông vừa 
uống rượu vừa nghe T.T hát hết bản này đến bản khác. Cú chơi “không đụng
 hàng” này của Công tử Bạc Liêu một lần nữa làm chấn động giới ăn chơi 
Sài Gòn, tạo ra thêm một giai thoại về Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy. 
Hôm sau, nhiều tờ báo đồng loạt viết bài tường thuật giật gân về chuyện 
“một mình một nhà hàng” của Công tử Bạc Liêu. Có tờ báo lại vẽ biếm họa 
cảnh Công tử Bạc Liêu tay chống cằm nhìn như muốn rớt tròng mắt vào một 
nàng con gái sexy trên sân khấu. Kể cả cái đêm “độc quyền” ấy, cô ca sĩ 
T.T cũng chỉ ghé lại bàn uống với Ba Huy vài ly rượu rồi chia tay.
Suốt thời gian dài, người ta thấy bữa nào Ba Huy cũng đến nhà hàng Soái 
Kình Lâm và gửi tiền boa cho T.T, nhưng đáp lại chỉ là ly rượu xã giao 
cùng nụ cười bí hiểm, ngoài ra không có gì hơn. 
Là người từng bách chiến
 bách thắng trên tình trường, Ba Huy như càng bị cám dỗ, kích thích, lại
 lao vào như con thiêu thân, gửi tặng cô ca sĩ trẻ rất nhiều tiền của, 
nhưng cô vẫn một mực khước từ những “lời đề nghị khiếm nhã” của Công tử 
Bạc Liêu. 
Lần đầu tiên một người vang danh trong chốn tình trường như Ba
 Huy cảm thấy "lực bất tòng tâm", nhưng ông cũng bắt đầu nhận ra mình đã
 quá già, không còn sức hút đối với các cô gái trẻ, dù có vung ra bao 
nhiêu tiền đi nữa.
Suy tàn gia tộc Trần Trinh
Từ sau lần bị thất tình đó, sức khỏe của Ba Huy sút giảm thật nhanh. 
Chứng bệnh thận được phát hiện trước đó vài năm, giờ phát triển mạnh, 
liên tục hành hạ Ba Huy. “Đa tửu hại tâm, đa dâm hại thận”, sự đúc kết 
của ông bà xưa chỉ đúng một nửa ở Ba Huy, ông không bị mắc bệnh tim, 
trong khi chứng suy thận thì hành hạ ông suốt những năm tháng cuối đời.
Trong khi ấy, ở nơi trời Tây, vợ Ba Huy (bà chánh thất Ngô Thị Đen) cũng
 mắc bệnh hiểm nghèo – ung thư não. Bà được đưa sang Thụy Sĩ để chữa trị
 và mất ở đó đầu năm 1972.
Vợ chồng cô con gái Hai Lưỡng sống ở Paris đã rước mẹ về Pháp, tẩm liệm 
xong thuê máy bay Dakota chở thẳng về Sài Gòn, rồi đưa về Bạc Liêu quàn 3
 ngày trước khi đưa đi chôn ở nghĩa trang Trần gia ở Cái Dầy, cách Bạc 
Liêu gần 10 cây số. Chôn cất vợ xong, Ba Huy quay lại Sài Gòn tiếp tục 
chữa trị chứng bệnh thận. 
Trần Trinh Huy chủ yếu sống trong bệnh viện, ở bên ngoài những đứa con, 
cháu của ông tiếp tục ăn chơi vô độ, tàn phá gia sản của gia đình. 
Đầu 
năm 1973, sức khỏe của Công tử Bạc Liêu càng suy sụp nặng nề. Ba Huy từ 
giã cõi đời trong cô độc, dù ông có hàng chục bà vợ, hàng trăm cô nhân 
tình, 4-5 dòng con.
Theo lời trăng trối của Ba Huy, người nhà đã trang trí quan tài của ông 
màu trắng, cho lên xe song mã sơn trắng, được hai con ngựa trắng chạy 
một vòng quanh Sài Gòn – Chợ Lớn. 
Sau đó linh cữu được đưa sang xe tang 
trực chỉ miền Tây đưa Công tử Bạc Liêu về nơi ông đã ra đi, nơi đã để 
lại cho ông danh xưng “Công tử Bạc Liêu” bất hủ. 
Tại Bạc Liêu, quan tài 
chỉ được quàn ở Nhà Lớn vài giờ, xong đưa thẳng ra Trần gia chi mộ ở Cái
 Dầy, kết thúc cuộc đời một con người làm xôn xao giới ăn chơi Nam Kỳ 
hơn nửa thế kỷ. 
Sau khi Công tử Bạc Liêu mất, chính quyền Sài Gòn đã quản lý Nhà Lớn của
 Trần Trinh Trạch. Lúc đầu dành cho các cố vấn Mỹ ở, sau làm tổng hành 
dinh của Sư đoàn 21 ngụy. 
Chính trong thời gian này, nội thất của ngôi 
nhà và nhiều đồ vật quý hiếm đã bị xâm hại, thất lạc. 
Sau ngày miền Nam 
giải phóng, dòng họ Trần còn lại một ít điền sản ở Cái Dầy, khoảng chục 
căn phố lầu ở Sài Gòn và vài ngôi nhà ở thị xã Bạc Liêu. Tất cả cũng chỉ
 đủ cho con cháu của gia tộc Trần Trinh tiêu xài thêm một thời gian nữa 
là hết.
Những người con của Công tử Bạc Liêu một số đã mất, một số định cư ở 
nước ngoài, chỉ còn vài ba người sống ở Việt Nam, tất cả đều nghèo khó, 
sống thầm lặng, ít người biết đến. 
 
Trong đó, chỉ duy nhất Trần Trinh Đức
 (Ba Đức) là về sống những năm cuối đời nơi quê cha đất tổ sau một thời 
gian sống bằng nghề chạy xe ôm khắp đó đây. 
Ông trở thành người con duy 
nhất của Công tử Bạc Liêu có đủ tư cách là người thừa kế cha mình hiện 
nay.
Ba Đức có hai người con trai, một của vợ trước, mang họ mẹ, đang sống 
nghèo khó đâu đó ở tỉnh Đồng Tháp, cả chục năm rồi ông không gặp lại; 
một đang sống không nhà ở Đồng Nai, nhiều năm rồi ông cũng không gặp.
Người cháu thừa kế chính thức của Công tử Bạc Liêu chính là đứa con gái 
của Ba Đức tên Trần Thị Phượng, đang cùng cha mẹ sống ở Bạc Liêu. Thế 
nhưng do bị tình phụ nên Trần Thị Phượng bị “điên”.
Kết cục của câu chuyện ba đời dòng họ Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy sao mà quá bi đát, không ai có thể tưởng tượng nổi! (Theo Lao Động)
............................................ 
    
Mới đây, PV tìm đến chùa Chén Kiểu (xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng) và được chiêm ngưỡng cặp giường này ngay trong chùa.
 
Ông Trần Văn Hai (62 tuổi), một người làm công quả sống cố cựu ở chùa, 
xác nhận, cặp giường này chính là của gia đình "Công tử Bạc Liêu" Trần 
Trinh Huy. Theo ông Hai, cặp giường được nhà chùa mua lại từ người khác 
vào khoảng năm 1950 - 1960.
    
            |  | 
            | Chiếc giường lạnh với những miếng đá lớn lót làm mặt nền. | 
Theo quan sát của PV, cặp giường có cấu trúc tương tự nhau, màu nâu đen,
 mỗi chiếc cao khoảng 2,5m, rộng gần 2m, nhưng có hoa văn trang trí khác
 nhau và điều đặc biệt ở cặp giường này là có một cái nóng và một cái 
lạnh. 
 
Theo ông Hai, ở phần mặt nền của chiếc giường nóng có 3 miếng gỗ 
giáng hương ghép lại được dùng để ngủ vào mùa mưa lạnh; còn chiếc giường
 lạnh có lót những miếng đá lớn nên dùng ngủ vào mùa hè nóng nực.
 
 
Nói về giá trị của mỗi chiếc giường, ông Hai cho biết, thời đó nhà chùa 
mua lại chiếc giường lạnh khoảng 5.000 đồng, còn giường nóng khoảng 
9.500 đồng. “Những năm 45, lúc đó lúa chỉ có bốn cắc năm một giạ nên giá
 trị của mỗi chiếc giường là rất lớn, chỉ có nhà giàu mới sở hữu những 
đồ vật như thế này”, ông Hai nói.
 
Trải qua thời gian, dù được lưu giữ cẩn thận nhưng hai chiếc giường cũng
 đã có dấu hiệu xuống cấp, hiện nhà chùa không cho khách lên ngồi, nằm 
thử khi đến tham quan nữa mà rào lại, chỉ cho phép chiêm ngưỡng.
 
 
Ngoài cặp giường nóng lạnh, tại chùa còn giữ một chiếc bàn dài và một 
chiếc bàn tròn mà theo ông Hai cũng là của gia đình "Công tử Bạc Liêu". 
Ngay tại chiếc bàn tròn, nhà chùa cũng có treo hình 
"Công tử Bạc Liêu" 
Trần Trinh Huy.
 
 
Ông Hai cho biết, mặt bàn dài là gỗ đỏ, chân gỗ bằng cẩm lai; còn mặt 
bàn tròn trên lót đá, chân bằng gỗ mun đen, hai chiếc bàn đều có cấu 
trúc, hoa văn đẹp mắt. Theo ông Hai, hai chiếc bàn được nhà chùa mua 
khoảng năm 1948, trong đó bàn dài có giá 4.000 đồng, còn bàn tròn khoảng
 1.200 đồng.
    
            |  | 
            | Bàn tròn có mặt bàn làm bằng đá, có nhiều hoa văn độc đáo. | 
Những đồ vật này, theo ông Hai đã trải qua 3 đời trụ trì chùa. Vào những
 buổi lễ lớn hoặc ngày thường có nhiều người đến chùa tham quan, họ rất 
quan tâm chiêm ngưỡng khi biết đó là những đồ dùng của gia đình “Công tử
 Bạc Liêu” - một trong những gia đình giàu có bậc nhất ở Nam Kỳ lục 
tỉnh.
 
 
Qua tìm hiểu một số tưu liệu, gia đình "Công tử Bạc Liêu" có một ngôi 
nhà gọi là Nhà Lầu ở điền Bàu Sàng (Vĩnh Lợi), đây là nơi gia đình Trần 
Trinh Huy dùng để điều hành công việc trong điền. 
 
Những năm 1945, do 
tình thế đất nước, gia đình Trần Trinh Huy cho người chở nhiều đồ dùng 
quý giá từ Nhà Lớn (Khách sạn Công tử Bạc Liêu ngày nay) như bàn thờ, tủ
 kiếng, sa-lông, bộ trường kỷ cẩm lại cẩn xà cừ, giường, tủ...vào cất 
giữ trong Nhà Lầu. Sau đó, Nhà Lầu bị tá điền cướp nhiều tài sản rồi bị 
đốt trụi. Những đồ vật nói ở trên là những đồ vật ở Nhà Lầu trước đây.
 
 
Nói về nguồn gốc của những đồ vật đang được lưu giữ ở chùa Chén Kiểu, 
khi tiếp xúc với PV, ông Trần Trinh Đức (con trai "Công tử Bạc Liêu" 
Trần Trinh Huy) xác nhận, các đồ vật ở chùa Chén Kiểu đều là của cha ông
 ngày xưa. 
   
Theo Lao Động